Tên gọi nguyệt quế mà nhiều người Việt hay mô tả về một loài cây thường xanh có hoa trắng, thơm đang nói tới là loài có tên khoa học Murraya paniculata, còn được gọi là nguyệt quất hoặc nguyệt quới. Tên gọi này dễ gây nhầm lẫn với một loài có tên khoa học Laurus nobilis, nhưng loài này không có hoa màu trắng mà là màu nâu vàng. Do đó trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về loài hoa có màu trắng là nguyệt quới (tên khoa học Murraya paniculata để tránh nhầm lẫn với hoa nguyệt quế thực thụ (Laurus nobilis).

Contents
I. Đặc điểm hình thái & sinh trưởng
Nguyệt quới là cây bụi thường xanh thuộc họ Rutaceae (họ Cửu lý hương), có nguồn gốc từ Ấn Độ & nhiệt đới châu Á, hoa nhỏ màu trắng rất thơm còn quả nhỏ màu cam nên nó thường được trồng làm hàng rào sân vườn.
1. Đặc điểm hình thái
Đây là một loại cây bụi thân gỗ nhỏ, thường xanh cao trung bình 1 – 7m nhưng trong tự nhiên có thể cao tới 12m. Thân và cành màu xám vàng nhạt hoặc trắng nhạt, hơi bóng, không có lông, nhiều nhánh hình trụ,
- Lá mọc so le, lá kép lông chim lẻ, dài 8 – 18 cm; lá chét 5 – 7, hiếm khi lên đến 9, mọc so le, xếp thành hai hàng, gần như mọc đối, hình trứng đến trứng ngược, dài 3 – 5 cm, rộng 1.5 – 2 cm, đầu lá tù hoặc hơi nhọn, gốc lá hình nêm; chất lá dày như da hoặc như giấy dày, mép lá nguyên, có các điểm tuyến chứa tinh dầu, mặt trên màu xanh đậm bóng, mặt dưới màu xanh nhạt; gân giữa hơi lõm ở mặt trên và nổi rõ ở mặt dưới, gân bên 3 – 5 cặp, không rõ; cả hai mặt đều nhẵn, không lông; cuống lá dài 2 – 3 cm, nhẵn, không lông; cuống lá chét dài 0.2 – 0.4 cm.
- Hoa nhiều, màu trắng, có mùi thơm, khi nở có đường kính 1 – 1.5 cm, mọc thành cụm hoa dạng xim tán (corymbose cyme) ở đầu cành hoặc nách lá; cụm hoa dài 4 – 8 cm, phân nhánh thẳng đứng hoặc hơi chếch lên trên, nhẵn, không lông; cuống hoa dài 0.25 – 0.4 cm; đài hoa hình ống, đầu có 5 thùy; thùy hình tam giác, đầu nhọn; 5 cánh hoa, hình elip thuôn dài hoặc hình mác, dài 1 – 1.5 cm, rộng 0.3 – 0.4 cm, đầu tù, phần trên mở rộng, xếp lợp (xếp chồng lên nhau như ngói lợp); nhị 10, dài ngắn không đều; chỉ nhị mảnh, nhẵn, không lông; bầu nhụy 2 ô, mỗi ô có 1 noãn. Thời kỳ ra hoa vào mùa hè và mùa thu.
- Quả mọng, hình trứng hoặc hình elip thuôn dài, dài khoảng 1 – 1.3 cm, đường kính khoảng 0.8 cm, đầu có mũi nhọn, khi chín có màu đỏ tươi; hạt 1 – 2, hình tròn, dài 0.5 – 0.6 cm, thời kỳ có quả từ tháng 8 đến tháng 6 năm sau.

2. Đặc điểm sinh trưởng
Nguyệt quới thích môi trường ấm áp, nhiệt độ phát triển tối ưu là 20 – 32°C, không chịu được lạnh < 5°C. Nó thích trồng ở đất cát và những nơi có nhiều nắng. Loài này không có yêu cầu khắt khe về đất nhưng nên chọn đất cát giàu mùn, tơi xốp và màu mỡ.
Loài này mọc tự nhiên ở các khu rừng nhiệt đới, cũng như các vùng núi ở Ấn Độ, Java, Đông Dương, Sri Lanka, Sumatra, miền nam Trung Quốc, Đài Loan và miền bắc Australia.
I. Tác dụng & ý nghĩa của hoa
1. Tác dụng
1.1. Dược liệu
Rễ và lá được dùng làm thuốc với vị hơi cay, đắng, tính ấm (có tài liệu nói hơi độc). Công dụng chính là thông kinh lạc, hành khí hoạt huyết, tán ứ, giảm đau, tiêu sưng, giải độc. Thường dùng trị cảm mạo, đau đầu, đau dạ dày, đau răng, đau nhức xương khớp do phong thấp, sưng đau do chấn thương. Kinh nghiệm dân gian còn dùng nước sắc lá súc họng trị nhiễm trùng, lá tươi ngậm trị mất ngủ, hoặc giã đắp ngoài trị viêm da. Cây chứa nhiều hoạt chất như alkaloid (yuehchukene – có hoạt tính kháng thai/ngừa làm tổ của phôi), flavonoid, coumarin và tinh dầu.
Cây được cho là tiết ra phytoncide (chất kháng sinh thực vật) có lợi cho tinh thần.
1.2. Gia vị
Trong ẩm thực, lá Nguyệt quế (thường dùng khô) được sử dụng rộng rãi như một loại gia vị, tương tự lá cà ri (một số nơi gọi là “cây cà ri”), đặc biệt sau khi được phi thơm trong bơ hoặc dầu. Lá phù hợp cho nhiều món ăn như rau hầm, món khai vị, súp, thịt gia cầm…
Lưu ý: Cây được ghi nhận là “có độc nhẹ” và chứa chất ảnh hưởng đến khả năng sinh sản (kháng thai). Việc sử dụng làm thuốc hoặc ăn các bộ phận của cây cần có sự tư vấn của thầy thuốc hoặc chuyên gia y tế có chuyên môn. Tuyệt đối không tự ý sử dụng theo các kinh nghiệm dân gian chưa được kiểm chứng.
II. Hướng dẫn trồng & chăm sóc cây
Cây mới trồng hoặc thay chậu phải tưới nước thật kỹ và đặt ở nơi râm mát khoảng 10 ngày, sau đó mới chuyển dần ra nơi có nắng.
1. Trồng & chăm sóc cây
Đất trồng phải hơi chua, hỗn hợp đất trồng lý tưởng là than bùn và cát tỷ lệ bằng nhau. Hoặc bạn có thể sử dụng hỗn hợp gồm 2 phần đất vườn, 2 phần đất mùn lá, cát sông, 2 phần đất than bùn, 1 phần đá trân châu và có thể bón thêm một ít phân hữu cơ để làm giàu dinh dưỡng cho đất.
- Không tưới nước cho đến khi bề mặt đất khô để tránh làm úng đất.
- Cây cần 2 – 3 giời ánh sáng mặt trời trực tiếp,
- Trong giai đoạn nảy chồi thì nên bón phân loãng 10 – 15 ngày / lần, chọn phân có hàm lượng lân và kali cao, có thể dùng kali dihydro photphat để tưới vào rễ và phun lên lá.
- Nên thay chậu vào mùa xuân cứ 2 – 3 năm thay 1 lần. Khi thay chậu, chỉ giữ lại khoảng 1/3 đất cũ và thay phần còn lại bằng đất trồng mới. Sau khi thay chậu, tưới nước thật nhiều và đặt cây ở nơi có nhiều ánh sáng mặt trời để thúc đẩy quá trình phục hồi rễ.

Một số vấn đề thường gặp:
- Cây rụng lá. Có lẽ là do thiếu ánh sáng.
- Lá vàng. Rất có thể là do nhiệt độ quá thấp, cũng có thể là do tưới nước không đúng cách, nước máy chưa được để lắng, còn chứa clo. Cũng không loại trừ khả năng đất bị úng nước.
- Cây bị thối rễ. Cần nhổ cây ra khỏi đất, cắt bỏ những phần rễ bị hỏng bằng kéo. Khi trồng cây lại, thay hoàn toàn đất mới.
- Khi không khí quá khô, đầu lá bắt đầu héo.
2. Phòng trừ sâu bệnh
Các bệnh phổ biến bao gồm bệnh phấn trắng, rỉ sét… Các loài gây bệnh chính là nhện, bọ cánh cứng, côn trùng cánh vảy…
- Bệnh phấn trắng xuất hiện trên lá thì bạn có thể phun azoxystrobin, triadimefon, thiophanate-methyl.
- Bệnh gỉ sắt thường gặp ở cành gây thối lõi bên trong, có thể phòng ngừa bằng cách phun triadimefon.
- Nhện đỏ xuất hiện khi nhiệt độ môi trường cao, chúng hút nhựa trên cành và lá, lá sẽ có đốm xám, nặng sẽ chuyển sang màu vàng và rụng. Bạn có thể phun Pyridaben.
- Côn trùng cánh vảy cũng hút nhựa cây. Bạn có thể dùng dimethoate, Mefenacet, acetylinate.

IV. Phương pháp nhân giống
1. Gieo hạt
Chọn những quả mọng chín đỏ, ngâm trong nước sạch, bỏ vỏ và tạp chất cũng như bỏ những hạt xẹp nổi trên mặt nước. Gieo hạt vào mùa xuân từ tháng 3 – tháng 5 hoặc mùa thu từ tháng 9 – tháng 10 khi nhiệt độ 16 – 22°C. Sau khi gieo xong phủ đất dày ~1cm, tưới nước và phủ cỏ hoặc màng nilon, sau 25 – 35 ngày có thể nảy mầm. Bạn chú ý mở màng nilon thường xuyên trong thời gian này để thông gió và tưới nước
Nếu trồng trực tiếp trong chậu thì chậu nên có đường kính không quá 8 – 9 cm và không quá 5 – 6 hạt mỗi chậu. Sau khi cây con mọc lên thì dọn cỏ, khi cây con ra được 2 – 3 lá thật thì trồng cách nhau 10 – 15cm. Kết hợp làm cỏ, bón thúc bằng hữu cơ khi cây cao 15 – 20cm.

2. Giâm cành
Giâm cành vào tháng 7 – tháng 8. Cắt cành bán gỗ được 1 năm tuổi, dài 10 – 15cm sao cho có 4 – 5 chồi mắt trên cành rồi ngâm vào chất kích rễ, sau đó cắm vào đất trồng ẩm (thường có cát và than bùn, đá trân châu)., duy trì nhiệt độ 26 – 30°C, bọc màng nilon lại. Nếu trồng theo luống thì khoảng cách trồng khoảng 12 x 9cm.

3. Phân lớp
Thường được thực hiện vào mùa mưa, tách vỏ của những cành bán già thành vòng tròn rồi vùi xuống đất, chờ rễ nảy mầm thì cắt thành từng đoạn và trồng riêng.
