Hoa ông lão là một chi thực vật có tên khoa học là Clematis với hơn 300 loài khác nhau và nổi bật trong đó có lẽ là Clematis armandii, là một loài cây dây leo có thể cao tới 6m. Thân cây hình trụ, có sọc dọc, cành non có gân và lông tơ màu trắng, sau rụng đi. Bản thân cái tên “clematis” xuất phát từ tiếng Hy Lạp “klema” có nghĩa là cây leo.
Contents
I. Đặc điểm hình thái & sinh trưởng
1. Đặc điểm hình thái
Đây là cây dây leo thân gỗ, cao tới 6 mét. Thân hình trụ, có sọc dọc; cành non có cạnh, ban đầu có lông tơ ngắn màu trắng, sau rụng đi.
- Lá là lá kép 3 lá chét (lá chét mọc chụm 3), mọc đối. Lá chét chất da, hình trứng hoặc hình elip dài, dài 4 – 12 cm, rộng 2 – 5 cm, đầu lá nhọn dần, gốc lá tròn, hình tim hoặc hình nêm rộng, mép lá nguyên, hai mặt không lông.
- Hoa: Cụm hoa dạng xim, mọc ở nách lá hoặc đầu cành, thường dài hơn hoặc gần bằng lá. Gốc cụm hoa ở nách lá có nhiều vảy chồi không rụng, dạng hình trứng dài 0.8 – 3.5 cm. Lá bắc ở phần dưới cụm hoa thường chia 3 thùy nông; lá bắc phần trên nhỏ dần, hình mác. Lá đài 4 (nhìn giống cánh hoa), xòe rộng, màu trắng, đôi khi có màu hồng nhạt, dài 1 – 2.5 cm, rộng 0.3 – 1.2 cm, mép mặt ngoài có lông tơ ngắn dày đặc đến thưa thớt. Nhị nhiều, không lông.
- Quả bế dẹt, hình trứng dài 4 – 7 mm, có lông tơ thưa. Vòi nhụy không rụng, kéo dài tới 5 cm, có lông tơ dài màu trắng (dạng lông vũ). Thời kỳ ra hoa vào mùa xuân, thời kỳ đậu quả từ mùa xuân đến mùa hè (khoảng tháng 4-7).

2. Đặc điểm sinh trưởng
Cây mọc ở rìa rừng ven sườn đồi, bụi rậm, vách đá, suối, sông ở độ cao 700 – 2000m so với mực nước biển, thường mọc bám vào các cây khác. Loài này ưa thời tiết ấm áp nhưng có thể chịu được nhiệt độ thấp trong thời gian ngắn khoảng 0°C vào mùa đông. Nó thích môi trường nửa râm mát nửa nắng, sinh trưởng tốt trên đất bùn tơi xốp, màu mỡ.
II. Tác dụng & ý nghĩa của hoa
1. Tác dụng
Ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, thân cây thường được dùng làm vị thuốc Mộc thông trong Y học cổ truyền. Nó có tác dụng lợi tiểu tiêu sưng, thông kinh hạ sữa (lợi sữa). Dùng để trị nhiễm trùng đường tiết niệu, tiểu tiện khó, viêm thận phù thũng, bế kinh, tắc tia sữa. (Theo “Trung Quốc Trung thảo dược Hối biên”).
Ngoài ra, thân cành rẽ nhánh có thể trừ thấp hoạt lạc (làm thông kinh lạc bị tắc nghẽn do ẩm thấp). Dùng để trị phong thấp, kinh nguyệt không đều, đau dạ dày, di chứng bại liệt ở trẻ em.
- Nước cốt thân tươi có thể dùng nhỏ mắt khi bị đau mắt đỏ.
- Hoa dùng để trị viêm amidan/đau họng.
Lưu ý: Thông tin về công dụng và cách dùng làm thuốc chỉ mang tính tham khảo, cần hỏi ý kiến thầy thuốc hoặc bác sĩ có chuyên môn trước khi sử dụng cho mục đích chữa bệnh.
2. Ý nghĩa
III. Hướng dẫn trồng & chăm sóc hoa
Đây là loài ưa nắng, cần được bảo vệ khỏi gió. Đất trồng phải hơi kiềm hoặc trung tính, tơi xốp, đất nhiễm mặn hoặc quá chua đều không thích hợp cho cây nên trong đất không nên có chứa than bùn. Bạn có thể tham khảo đất trồng gồm đất vườn, phân hữu cơ, cát, than bùn tỷ lệ 4:2:1:1. Trước khi trồng thì nên lắp giàn đỡ cao khoảng 2m để hỗ trợ dây leo lên khi có gió mạnh, giữa các cây cách ít nhất 20 cm.
Trồng cây chủ yếu bằng cách gieo hạt (xem thêm ở mục IV). Nhiệt độ sinh trưởng thích hợp cho hoa ông lão là 20 – 25°C, chịu được nhiệt độ khoảng 38°C miễn sao tưới đủ nước. Khi cây con xuất hiện lá thật thì mở rộng khoảng cách giữa các gốc cây, đồng thời phun dung dịch nước urê 0.2 – 0.3% cứ 10 ngày 1 lần, cũng có thể phun xen kẽ dung dịch kali dihydro photphat 0.2% để cây con cứng cáp. Khi cây con cao hơn 30 cm có thể dựng cọc tre để cây leo lên.
Tưới nước 1 tuần /lần vào mùa xuân. Mùa hè là thời kỳ cây sinh trưởng mạnh nên phải tưới nhiều hơn để giữ đất luôn ẩm, mùa thu và mùa đông giảm lượng nước tưới.
IV. Phương pháp nhân giống
Các phương pháp nhân giống hoa ông lão chủ yếu là gieo hạt, xếp lớp và giâm cành.
1. Gieo hạt
Quả của cây là dạng quả bế tụ, vỏ hạt khá dày. Trước khi gieo hạt, nên ngâm hạt trong nước ấm đun sôi khoảng 45°C, khi thấy hạt hút nước trương lên thì có thể vớt ra để chờ gieo.
Gieo hạt vào cuối mùa khô – đầu mùa mưa (khoảng tháng 2-3). Trước khi gieo, cần làm đất tơi mịn, san phẳng để làm luống. Kích thước luống tùy nhu cầu, thường dài 4 – 6 mét, rộng 60 – 80 cm, cao 30 – 35 cm, rãnh rộng 40 – 45 cm. Sau khi chuẩn bị luống xong, cần khử trùng đất bằng thuốc, ví dụ nước Formalin pha loãng 2000 lần và dung dịch Zineb 0.3%, rồi dùng màng nilon đậy kín 24 giờ, sau đó gỡ màng ra, phơi đất vài ngày là có thể gieo hạt.
Khi gieo hạt, rạch hàng trên luống ươm với khoảng cách hàng 15 – 25 cm, gieo hạt đều vào trong hàng, phủ đất che kín hạt, dùng bình doa tưới đẫm nước. Trên luống ươm lại phủ thêm một lớp rơm rạ để giữ ấm và giữ ẩm.

2. Giâm cành
Tiến hành vào khoảng tháng 4-5 trở đi. Khi giâm cành, chọn cành vươn dài chưa có nụ hoa, sau khi giâm dễ sống. Chiều dài cành giâm thường là 10 – 15 cm, ít nhất phải có 3 – 4 lóng (đốt). Cắt bỏ lá ở phần dưới, giữ lại 2 lá ở đỉnh, phần gốc dùng dao sắc bén cắt vát 45°.
Cành giâm cắt xong, dùng dung dịch nước NAA (Naphthaleneacetic acid) nồng độ 0.005-0.01% (tương đương 50-100 ppm) ngâm phần gốc cành giâm (khoảng 2 cm) trong 24 giờ (hoặc nhúng vào dung dịch kích rễ chuyên dùng), sau đó có thể lấy cành ra để giâm.
Đất cần tơi xốp, thấm nước và thoát nước tốt, khử trùng bằng nước thuốc tím (KMnO4) pha loãng 1:3000 lần nước, cũng đậy kín một ngày đêm, phơi vài ngày trước khi giâm cành.
Khi giâm, cắm cành giâm theo khoảng cách cây cách cây và hàng cách hàng 15 – 25 cm, độ sâu khoảng 2/3 chiều dài cành giâm, phủ đất nén chặt, lập tức phun đẫm nước một lần để cành giâm và giá thể tiếp xúc chặt chẽ.
